CUỘC TAO PHÙNG GIỮA GIAI NHÂN VÀ THI SĨ.
Trang 1 trong tổng số 1 trang
CUỘC TAO PHÙNG GIỮA GIAI NHÂN VÀ THI SĨ.
Ngày xưa, qua sách vở,điển cố và giai thoại,ta thấy giai nhân và danh sĩ vốn có duyên nợ với nhau và đã diễn ra biết bao nhiêu cuộc tao phùng thú vị.Ở Trung Hoa,từ khi có thể từ,các nhà thơ làm từ cho ca kỹ hát và do đó,mối tình giữa hai bên càng thêm gắn bó.Đời Thịnh Đường ,một ca nhi trẻ đẹp hát bài “Lương Châu Từ” của Vương Chi Hoán khiến ông trở thành “thi thiên tử”(vua thơ) sau nầy.Đời Tống,Tô Đông Pha nhờ làm từ cho ca nhi hát mà cưới được người thiếp tài hoa xinh đẹp là Triêu vân,vừa là tri âm vừa là tri kỷ.
Ngoài ra cũng có những cuộc tao phùng éo le như trường hợp Bạch Cư Dị,Nguyễn Du,Cao Bá Quát và Dương Khuê.
BẠCH CƯ DỊ VỚI BÀI “TỲ BÀ HÀNH”.
Bạch Cư Dị (772-846) tự Lạc Thiên,người Hạ Khuê,tỉnh Thiễm Tây,đỗ Tiến Sĩ làm quan đến chức Thượng Thư Bộ Hình.Do đấu tranh với bọn quan lại thủ cựu,ông bị biếm ra làm Tư Mã Giang Châu.Tại đây trong một đêm tiển bạn trên bến Tầm Dương,ông tình cờ gặp được người ca kỹ về già đàn cho ông nghe khúc đàn tuyệt diệu,nhờ đó mà ông có cảm hứng viết nên bản trường ca “Tỳ Bà Hành” bất hủ.
Cuộc gặp gỡ ấy quả là duyên may hiếm có.
Đàn ai chợt thoảng trên sông,
Chủ khuây khoả lại,khách dùng dằng xuôi.
Người ca kỹ ấy có ngón đàn kỳ tuyệt khiến Bạch Cư Dị phải say sưa tán thưởng.Tiếng đàn có lúc ào ào như đổ cơn mưa,có lúc khoan thai dìu dặt như lời tỉ tê tâm sự:
Ngón buông bắt khoan khoan dìu dặt.
Trước Nghê Thường, sau thoắt Lục Yêu.
Dây to làm đổ mưa rào,
Nỉ non dây nhỏ khác nào chuyện riêng.
Có lúc tiếng đàn mạnh lên như nước tuôn từ bình bạc vỡ,như tiếng đao xô xát,như tiếng xé lụa:
Bình bạc vỡ tuôn đầy mặt nước
Ngựa sắt giong xô xát tiếng đao.
Cung đàn trọn khúc thanh tao,
Tiếng buông xé lụa dựa vào bốn dây.
Qua lời tả của Bạch Cư Dị,ta thấy người ca kỹ ấy quả là một danh cầm.Thật vậy,theo lời nàng kể thì lúc còn trẻ,tiếng đàn của nàng đã từng làm xao xuyến say mê biết bao khách hào hoa phong nhã ở đất Ngũ Lăng:
Ngũ Lăng chàng trẻ ganh đua,
Biết bao the thắm chuốt mua tiếng đàn.
Vành lược bạc gãy tan nhịp gõ,
Bức quần hồng hoen ố rượu rơi.
Nhưng rồi mãi đắm mình trong hoan lạc không để ý đến thời gian qua nhanh,tuổi già đến lúc nào không hay,nàng đành kết duyên với một khách thương,nhưng người nầy ham tiền nên đi buôn bán rày đây mai đó,bỏ mặc nàng cô đơn trên bến Tầm Dương.
Thuyền không bến đổ mặc ai
Quanh thuyền trăng dãi nước trôi lạnh lùng
Bạch Cư Dị thấy hoàn cảnh của nàng giống như hoàn cảnh bị đày ải của mình “cùng một lứa bên trời lận đận” nên rất xúc động,bèn yêu cầu nàng ngồi rốn lại gảy chơi khúc nửa và lần nầy thì:
Nghe não ruột khác tay đàn trước,
Khắp tiệc hoa tuôn nước lệ rơi,
Lệ ai chan chứa hơn người,
Giang Châu Tư Mã đượm mùi áo xanh.
Bạch Cư Dị đã khóc đến ướt đẫm cả áo xanh;ông khóc vì tiếng đàn buồn,khóc cho số kiếp hẩm hiu của nàng hay khóc cho thân thế của chính mình?Có lẽ cả ba.
Cuộc kỳ ngộ nầy quả là một duyên may hiếm có của Bạch Cư Dị,nếu không,ông đã không có được tác phẩm “Tỳ Bà Hành” lưu danh thiên cổ.
Huyền Viêm
Kiến Thức Ngày Nay số 42 ngày 10.04.2002.
Ngoài ra cũng có những cuộc tao phùng éo le như trường hợp Bạch Cư Dị,Nguyễn Du,Cao Bá Quát và Dương Khuê.
BẠCH CƯ DỊ VỚI BÀI “TỲ BÀ HÀNH”.
Bạch Cư Dị (772-846) tự Lạc Thiên,người Hạ Khuê,tỉnh Thiễm Tây,đỗ Tiến Sĩ làm quan đến chức Thượng Thư Bộ Hình.Do đấu tranh với bọn quan lại thủ cựu,ông bị biếm ra làm Tư Mã Giang Châu.Tại đây trong một đêm tiển bạn trên bến Tầm Dương,ông tình cờ gặp được người ca kỹ về già đàn cho ông nghe khúc đàn tuyệt diệu,nhờ đó mà ông có cảm hứng viết nên bản trường ca “Tỳ Bà Hành” bất hủ.
Cuộc gặp gỡ ấy quả là duyên may hiếm có.
Đàn ai chợt thoảng trên sông,
Chủ khuây khoả lại,khách dùng dằng xuôi.
Người ca kỹ ấy có ngón đàn kỳ tuyệt khiến Bạch Cư Dị phải say sưa tán thưởng.Tiếng đàn có lúc ào ào như đổ cơn mưa,có lúc khoan thai dìu dặt như lời tỉ tê tâm sự:
Ngón buông bắt khoan khoan dìu dặt.
Trước Nghê Thường, sau thoắt Lục Yêu.
Dây to làm đổ mưa rào,
Nỉ non dây nhỏ khác nào chuyện riêng.
Có lúc tiếng đàn mạnh lên như nước tuôn từ bình bạc vỡ,như tiếng đao xô xát,như tiếng xé lụa:
Bình bạc vỡ tuôn đầy mặt nước
Ngựa sắt giong xô xát tiếng đao.
Cung đàn trọn khúc thanh tao,
Tiếng buông xé lụa dựa vào bốn dây.
Qua lời tả của Bạch Cư Dị,ta thấy người ca kỹ ấy quả là một danh cầm.Thật vậy,theo lời nàng kể thì lúc còn trẻ,tiếng đàn của nàng đã từng làm xao xuyến say mê biết bao khách hào hoa phong nhã ở đất Ngũ Lăng:
Ngũ Lăng chàng trẻ ganh đua,
Biết bao the thắm chuốt mua tiếng đàn.
Vành lược bạc gãy tan nhịp gõ,
Bức quần hồng hoen ố rượu rơi.
Nhưng rồi mãi đắm mình trong hoan lạc không để ý đến thời gian qua nhanh,tuổi già đến lúc nào không hay,nàng đành kết duyên với một khách thương,nhưng người nầy ham tiền nên đi buôn bán rày đây mai đó,bỏ mặc nàng cô đơn trên bến Tầm Dương.
Thuyền không bến đổ mặc ai
Quanh thuyền trăng dãi nước trôi lạnh lùng
Bạch Cư Dị thấy hoàn cảnh của nàng giống như hoàn cảnh bị đày ải của mình “cùng một lứa bên trời lận đận” nên rất xúc động,bèn yêu cầu nàng ngồi rốn lại gảy chơi khúc nửa và lần nầy thì:
Nghe não ruột khác tay đàn trước,
Khắp tiệc hoa tuôn nước lệ rơi,
Lệ ai chan chứa hơn người,
Giang Châu Tư Mã đượm mùi áo xanh.
Bạch Cư Dị đã khóc đến ướt đẫm cả áo xanh;ông khóc vì tiếng đàn buồn,khóc cho số kiếp hẩm hiu của nàng hay khóc cho thân thế của chính mình?Có lẽ cả ba.
Cuộc kỳ ngộ nầy quả là một duyên may hiếm có của Bạch Cư Dị,nếu không,ông đã không có được tác phẩm “Tỳ Bà Hành” lưu danh thiên cổ.
Huyền Viêm
Kiến Thức Ngày Nay số 42 ngày 10.04.2002.
thanh huyen- 69KNS
- Tổng số bài gửi : 705
Join date : 10/06/2011
TỲ BÀ HÀNH -Bạch Cư Dị
Tỳ Bà Hành
Tầm Dương giang đầu dạ tống khách
Phong diệp địch hoa thu sắt sắt
Chủ nhân há mã khách tại thuyền
Cử tửu dục ẩm vô quản huyền
Túy bất thành hoan, thảm tương biệt
Biệt thời mang mang giang tẩm nguyệt
Hốt văn thủy thượng tỳ bà thanh
Chủ nhân vong quy khách bất phát
Tầm thanh ám vấn đàn giả thùy ?
Tỳ bà thanh đình dục ngữ trì
Di thuyền tương cận yêu tương kiến
Thiêm tửu hồi đăng trùng khai yến
Thiên hô vạn hoán thủy xuất lai
Do bão tỳ bà bán già diện
Chuyển trục bát huyền tam lưỡng thanh
Vị thành khúc điệu, tiên hữu tình
Huyền huyền yểm ức, thanh bình tứ
Tự tố bình sinh bất đắc chí
Đê mi tín thủ tục tục đàn
Thuyết tận tâm trung vô hạn sự
Khinh lung mạn nhiên mạt phục khiêu
Sơ vi “Nghê thường”, hậu “Lục yêu”
Đại huyền tao tao như cấp vũ
Tiểu huyền thiết thiết như tư ngữ
Tao tao thiết thiết thác tạp đàn
Đại châu tiểu châu lạc ngọc bàn
Gian quan oanh ngữ hoa để hoạt
U yết tuyền lưu thủy há than
Thủy tiền lãnh sáp huyền ngưng tuyệt
Ngưng tuyệt bất thông thanh tạm yết
Biệt hữu u tình ám hận sinh
Thử thời vô thanh thắng hữu thanh
Ngân bình sạ phá thủy tương bỉnh
Thiết kỵ đột xuất đao thương minh
Khúc chung thu bát đương tâm hoạch
Tứ huyền nhất thanh như liệt bạch
Đông thuyền tây phảng tiễu vô ngôn
Duy kiến giang tâm thu nguyệt bạch
Trầm ngâm phóng bát sáp huyền trung
Chỉnh đốn y thường khởi liễm dung
Tự ngôn: “Bản thị kinh thành nữ
Gia tại Hà Mô lăng hạ trú
Thập tam học đắc tỳ bà hành
Danh thuộc giáo phường đệ nhất bộ
Khúc bãi tằng giao Thiện Tài phục
Trang thành mỗi bị Thu Nương đố
Ngũ Lăng niên thiếu tranh triền đầu
Nhất khúc hồng tiêu bất tri số
Điền đầu ngân tì kích tiết toái
Huyết sắc la quần phiên tửu ố
Kim niên hoan tiếu phục minh niên
Thu nguyệt xuân phong đẳng nhàn độ
Đệ tẩu tòng quân, a di tử
Mộ khứ, triêu lai nhan sắc cố
Môn tiền lãnh lạc xa mã hí
Lão đại giá tác thương nhân phụ
Thương nhân trọng lợi, khinh biệt ly
Tiền nguyệt Phù Lương mãi trà khứ ?
Khứ lại giang khẩu thủ không thuyền
Nhiễu thuyền nguyệt minh, giang thủy hàn
Dạ thâm hốt mộng thiếu niên sự
Mộng đề trang lệ hồng lan can “
Ngã văn tỳ bà dĩ thán tức
Hựu văn thử ngữ trùng tức tức
Đồng thị thiên nhai luân lạc nhân
Tương phùng hà tất tằng tương thức
”Ngã tòng khứ niên từ đế kinh
Trích cư ngọa bệnh Tầm Dương thành
Tầm Dương địa tịch vô âm nhạc
Chung tuế bất văn ty trúc thanh
Trú cận Bồn Giang địa đê thấp
Hoàng lô khổ trúc nhiễu trạch sinh
Kỳ gian đán mộ văn hà vật
Đỗ quyên đề huyết viên ai minh
Xuân giang hoa triêu thu nguyệt dạ
Vãng vãng thủ tửu hoàn độc khuynh
Khởi vô sơn ca dữ thôn địch
Ẩu á trào triết nan vi thính
Kim dạ văn quân Tỳ bà ngữ
Như thính tiên nhạc nhĩ tạm minh
Mạc từ cánh tọa đàn nhất khúc
Vị quân phiên tác tỳ bà hành “
Cảm ngã thử ngôn lương cửu lập
Khước tọa xúc huyền, huyền chuyển cấp
Thê thê bất tự hướng tiền thanh
Mãn tọa trùng văn giai yểm khấp
Tọa trung khấp hạ thùy tối đa ?
Giang Châu tư mã thanh sam thấp
Bạch Cư Dị
Bản dịch thơ của Phan Huy Vịnh:
Tỳ Bà Hành
Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách
Quạnh hơi thu, lau lách đìu hiu
Người xuống ngựa, khách dừng chèo
Chén quỳnh mong cạn, nhớ chiều trúc ti
Say những luống ngại khi chia rẽ
Nước mênh mông đượm vẻ gương trong
Đàn ai nghe vẳng bên sông
Chủ khuây khỏa lại khách dùng dằng xuôi
Tìm tiếng sẽ hỏi ai đàn tá ?
Dừng dây tơ nấn ná làm thinh
Dời thuyền ghé lại thăm tình
Chong đèn, thêm rượu, còn dành tiệc vui
Mời mọc mãi, thấy người bỡ ngỡ
Tay ôm đàn che nửa mặt hoa
Vặn đàn mấy tiếng dạo qua
Dẫu chưa nên khúc, tình đà thoảng hay
Nghe não nuột mấy dây buồn bực
Dường than niềm tấm tức bay lâu
Mày chau tay gẩy khúc sầu
Dãi bầy hết nỗi trước sau muôn vàn
Ngón buông, bắt khoan khoan dìu dặt
Trước Nghê thường sau thoắt Lục Yêu:
Dây to nhường đổ mưa rào
Nỉ non dây nhỏ khác nào chuyện riêng
Tiếng cao thấp lựa chen lần gẩy
Mâm ngọc đâu bỗng nảy hạt châu
Trong hoa oanh ríu rít nhau
Nước tuôn róc rách, chảy mau xuống ghềnh
Nước suối lạnh, dây mành ngừng đứt
Ngừng đứt nên phút bật tiếng tơ
Ôm sầu, mang giận ngẩn ngơ
Tiếng tơ lặng ngắt, bây giờ càng hay
Bình bạc vỡ tuôn đầy dòng nước
Ngựa sắt giong, xô xát tiếng đao
Cung đàn trọn khúc thanh tao
Tiếng buông xé lựa, lưạ vào bốn dây
Thuyền mấy lá đông tây lạnh ngắt
Một vầng trăng trong vắt lòng sông
Ngậm ngùi đàn bát xếp xong
Áo xiêm khép nép hầu mong dãi nhời
Rằng: “Xưa vốn là người kẻ chợ
Cồn Hà Mô trú ở lân la
Học đàn từ thuở mười ba
Giáo phường đệ nhất sổ đà chép tên
Gã Thiện tài sợ phen dừng khúc
Ả Thu nương ghen lúc điểm tô
Ngũ Lăng, chàng trẻ ganh đua
Biết bao the thắm chuốc mua tiếng đàn
Vành lược bạc gãy tan dịp gõ
Bức quần hồng hoen ố rượu rơi
Năn năm lần lữa vui cười
Mải trăng gió chẳng đoái hoài xuân thu
Buồn em trảy, lại lo dì thác
Sầu hôm mai đổi khác hình dung
Cửa ngoài xe ngựa vắng không
Thân già mới kết duyên cùng khách thương
Khách trọng lợi khinh thường ly cách
Mải buôn chè sớm tếch nguồn khơi
Thuyền không, đậu bến mặc ai
Quanh thuyền trăng dãi, nước trôi lạnh lùng
Đêm khuya, sực nhớ vòng tuổi trẻ
Chợt mơ màng dòng lệ đỏ hoen
Nghe đàn ta đã trạnh buồn
Lại rầu nghe nỗi nỉ non mấy nhời :
” Cùng một lứa bên trời lận đận
Gặp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau
Từ xa kinh khuyết bấy lâu
Tầm Dương đất trích gối sầu hôm mai
Chốn cùng tịch lấy ai vui thích
Tai chẳng nghe đàn địch cả năm
Sông Bồn gần chốn cát lầm
Lau vàng, trúc võ, âm thầm, quanh hiên
Tiếng chi đó nghe liền sớm tối
Cuốc kêu sầu, vượn nói nỉ non
Hoa xuân nở, nguyệt thu tròn
Lần lần tay chuốc chén son ngập ngừng
Há chẳng có ca rừng, địch nội ?
Giọng líu lo, buồn nỗi khó nghe
Tỳ bà nghe dạo canh khuya
Dường như tiên nhạc gần kề bên tai
Hãy ngồi lại gẩy chơi khúc nữa
Sẽ vì nàng soạn sửa bài ca“
Đứng lâu dường cảm lời ta
Lại ngồi lựa phím đàn đà kíp dây
Nghe não nuột khác tay đàn trước
Khắp tiệc hoa sướt mướt lệ rơi
Lệ ai chan chứa hơn người ?
Giang Châu tư mã đượm mùi áo xanh
Phan Huy Vịnh dịch
Tầm Dương giang đầu dạ tống khách
Phong diệp địch hoa thu sắt sắt
Chủ nhân há mã khách tại thuyền
Cử tửu dục ẩm vô quản huyền
Túy bất thành hoan, thảm tương biệt
Biệt thời mang mang giang tẩm nguyệt
Hốt văn thủy thượng tỳ bà thanh
Chủ nhân vong quy khách bất phát
Tầm thanh ám vấn đàn giả thùy ?
Tỳ bà thanh đình dục ngữ trì
Di thuyền tương cận yêu tương kiến
Thiêm tửu hồi đăng trùng khai yến
Thiên hô vạn hoán thủy xuất lai
Do bão tỳ bà bán già diện
Chuyển trục bát huyền tam lưỡng thanh
Vị thành khúc điệu, tiên hữu tình
Huyền huyền yểm ức, thanh bình tứ
Tự tố bình sinh bất đắc chí
Đê mi tín thủ tục tục đàn
Thuyết tận tâm trung vô hạn sự
Khinh lung mạn nhiên mạt phục khiêu
Sơ vi “Nghê thường”, hậu “Lục yêu”
Đại huyền tao tao như cấp vũ
Tiểu huyền thiết thiết như tư ngữ
Tao tao thiết thiết thác tạp đàn
Đại châu tiểu châu lạc ngọc bàn
Gian quan oanh ngữ hoa để hoạt
U yết tuyền lưu thủy há than
Thủy tiền lãnh sáp huyền ngưng tuyệt
Ngưng tuyệt bất thông thanh tạm yết
Biệt hữu u tình ám hận sinh
Thử thời vô thanh thắng hữu thanh
Ngân bình sạ phá thủy tương bỉnh
Thiết kỵ đột xuất đao thương minh
Khúc chung thu bát đương tâm hoạch
Tứ huyền nhất thanh như liệt bạch
Đông thuyền tây phảng tiễu vô ngôn
Duy kiến giang tâm thu nguyệt bạch
Trầm ngâm phóng bát sáp huyền trung
Chỉnh đốn y thường khởi liễm dung
Tự ngôn: “Bản thị kinh thành nữ
Gia tại Hà Mô lăng hạ trú
Thập tam học đắc tỳ bà hành
Danh thuộc giáo phường đệ nhất bộ
Khúc bãi tằng giao Thiện Tài phục
Trang thành mỗi bị Thu Nương đố
Ngũ Lăng niên thiếu tranh triền đầu
Nhất khúc hồng tiêu bất tri số
Điền đầu ngân tì kích tiết toái
Huyết sắc la quần phiên tửu ố
Kim niên hoan tiếu phục minh niên
Thu nguyệt xuân phong đẳng nhàn độ
Đệ tẩu tòng quân, a di tử
Mộ khứ, triêu lai nhan sắc cố
Môn tiền lãnh lạc xa mã hí
Lão đại giá tác thương nhân phụ
Thương nhân trọng lợi, khinh biệt ly
Tiền nguyệt Phù Lương mãi trà khứ ?
Khứ lại giang khẩu thủ không thuyền
Nhiễu thuyền nguyệt minh, giang thủy hàn
Dạ thâm hốt mộng thiếu niên sự
Mộng đề trang lệ hồng lan can “
Ngã văn tỳ bà dĩ thán tức
Hựu văn thử ngữ trùng tức tức
Đồng thị thiên nhai luân lạc nhân
Tương phùng hà tất tằng tương thức
”Ngã tòng khứ niên từ đế kinh
Trích cư ngọa bệnh Tầm Dương thành
Tầm Dương địa tịch vô âm nhạc
Chung tuế bất văn ty trúc thanh
Trú cận Bồn Giang địa đê thấp
Hoàng lô khổ trúc nhiễu trạch sinh
Kỳ gian đán mộ văn hà vật
Đỗ quyên đề huyết viên ai minh
Xuân giang hoa triêu thu nguyệt dạ
Vãng vãng thủ tửu hoàn độc khuynh
Khởi vô sơn ca dữ thôn địch
Ẩu á trào triết nan vi thính
Kim dạ văn quân Tỳ bà ngữ
Như thính tiên nhạc nhĩ tạm minh
Mạc từ cánh tọa đàn nhất khúc
Vị quân phiên tác tỳ bà hành “
Cảm ngã thử ngôn lương cửu lập
Khước tọa xúc huyền, huyền chuyển cấp
Thê thê bất tự hướng tiền thanh
Mãn tọa trùng văn giai yểm khấp
Tọa trung khấp hạ thùy tối đa ?
Giang Châu tư mã thanh sam thấp
Bạch Cư Dị
Bản dịch thơ của Phan Huy Vịnh:
Tỳ Bà Hành
Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách
Quạnh hơi thu, lau lách đìu hiu
Người xuống ngựa, khách dừng chèo
Chén quỳnh mong cạn, nhớ chiều trúc ti
Say những luống ngại khi chia rẽ
Nước mênh mông đượm vẻ gương trong
Đàn ai nghe vẳng bên sông
Chủ khuây khỏa lại khách dùng dằng xuôi
Tìm tiếng sẽ hỏi ai đàn tá ?
Dừng dây tơ nấn ná làm thinh
Dời thuyền ghé lại thăm tình
Chong đèn, thêm rượu, còn dành tiệc vui
Mời mọc mãi, thấy người bỡ ngỡ
Tay ôm đàn che nửa mặt hoa
Vặn đàn mấy tiếng dạo qua
Dẫu chưa nên khúc, tình đà thoảng hay
Nghe não nuột mấy dây buồn bực
Dường than niềm tấm tức bay lâu
Mày chau tay gẩy khúc sầu
Dãi bầy hết nỗi trước sau muôn vàn
Ngón buông, bắt khoan khoan dìu dặt
Trước Nghê thường sau thoắt Lục Yêu:
Dây to nhường đổ mưa rào
Nỉ non dây nhỏ khác nào chuyện riêng
Tiếng cao thấp lựa chen lần gẩy
Mâm ngọc đâu bỗng nảy hạt châu
Trong hoa oanh ríu rít nhau
Nước tuôn róc rách, chảy mau xuống ghềnh
Nước suối lạnh, dây mành ngừng đứt
Ngừng đứt nên phút bật tiếng tơ
Ôm sầu, mang giận ngẩn ngơ
Tiếng tơ lặng ngắt, bây giờ càng hay
Bình bạc vỡ tuôn đầy dòng nước
Ngựa sắt giong, xô xát tiếng đao
Cung đàn trọn khúc thanh tao
Tiếng buông xé lựa, lưạ vào bốn dây
Thuyền mấy lá đông tây lạnh ngắt
Một vầng trăng trong vắt lòng sông
Ngậm ngùi đàn bát xếp xong
Áo xiêm khép nép hầu mong dãi nhời
Rằng: “Xưa vốn là người kẻ chợ
Cồn Hà Mô trú ở lân la
Học đàn từ thuở mười ba
Giáo phường đệ nhất sổ đà chép tên
Gã Thiện tài sợ phen dừng khúc
Ả Thu nương ghen lúc điểm tô
Ngũ Lăng, chàng trẻ ganh đua
Biết bao the thắm chuốc mua tiếng đàn
Vành lược bạc gãy tan dịp gõ
Bức quần hồng hoen ố rượu rơi
Năn năm lần lữa vui cười
Mải trăng gió chẳng đoái hoài xuân thu
Buồn em trảy, lại lo dì thác
Sầu hôm mai đổi khác hình dung
Cửa ngoài xe ngựa vắng không
Thân già mới kết duyên cùng khách thương
Khách trọng lợi khinh thường ly cách
Mải buôn chè sớm tếch nguồn khơi
Thuyền không, đậu bến mặc ai
Quanh thuyền trăng dãi, nước trôi lạnh lùng
Đêm khuya, sực nhớ vòng tuổi trẻ
Chợt mơ màng dòng lệ đỏ hoen
Nghe đàn ta đã trạnh buồn
Lại rầu nghe nỗi nỉ non mấy nhời :
” Cùng một lứa bên trời lận đận
Gặp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau
Từ xa kinh khuyết bấy lâu
Tầm Dương đất trích gối sầu hôm mai
Chốn cùng tịch lấy ai vui thích
Tai chẳng nghe đàn địch cả năm
Sông Bồn gần chốn cát lầm
Lau vàng, trúc võ, âm thầm, quanh hiên
Tiếng chi đó nghe liền sớm tối
Cuốc kêu sầu, vượn nói nỉ non
Hoa xuân nở, nguyệt thu tròn
Lần lần tay chuốc chén son ngập ngừng
Há chẳng có ca rừng, địch nội ?
Giọng líu lo, buồn nỗi khó nghe
Tỳ bà nghe dạo canh khuya
Dường như tiên nhạc gần kề bên tai
Hãy ngồi lại gẩy chơi khúc nữa
Sẽ vì nàng soạn sửa bài ca“
Đứng lâu dường cảm lời ta
Lại ngồi lựa phím đàn đà kíp dây
Nghe não nuột khác tay đàn trước
Khắp tiệc hoa sướt mướt lệ rơi
Lệ ai chan chứa hơn người ?
Giang Châu tư mã đượm mùi áo xanh
Phan Huy Vịnh dịch
thanh huyen- 69KNS
- Tổng số bài gửi : 705
Join date : 10/06/2011
NGUYỄN DU VỚI “LONG THÀNH CẦM GIẢ CA”
Nguyễn Du tự là Tố Như,hiệu là Thanh Hiên,người làng Tiên Điền,huyện Nghi Xuân,tỉnh Hà Tỉnh.Thời trẻ,Nguyễn Du đã từng nổi tiếng là một cậu ấm đa tình.
Một lần tiên sinh đến kinh đô thăm anh,ở quán trọ bên hồ Giám.Cạnh đấy,các quan Tây Sơn cho gọi con hát tới,những con hát nổi tiếng không dưới vài chục người.Riêng có một người sở trường về đàn Nguyệt,hát cũng hay lại khéo pha trò.tên nàng là gì không ai biết,chỉ biết nàng rất thạo đàn nguyệt nên mọi người gọi là cô Cầm,lâu ngày thành tên.
Nàng không đẹp lắm nhưng khéo trang điểm nên cũng dễ coi,có vẻ ung dung phong nhã và ngón đàn nàng thật là tuyệt kỹ:
Bàn tay năm dây biến hoá,
Tiếng khoan như thoảng gió rừng thông.
Trong như tiếng hạt đêm trường,
Mạnh bia Tiến Phúc (1) gặp luồng sấm ran.
Sầu thảm tiếng ngâm Trang Tịch (2) bệnh,
Khách ngồi nghe như tỉnh như say.
Đến khi nàng tấu nhạc thường dùng trong đại điện Trung Hoà thì khanh tướng Tây Sơn tahỷ đều ngây ngất,suốt đêm vui chơi không biết chán.Tiền lụa thưởng nhiều vô kể,chất đầy mặt đất:
Trung Hoà đại điện khúc nầy,
Tây Sơn quan khách chắp tay phục tài
Cười vui suốt đêm dài chẳng dứt,
Thưởng tài,ai mặc sức tiền vung.
Tiền vàng xem tựa đất bùn,
Hào hoa lấn cả vương tôn công hầu.
Rồi tình hình đất nước biến chuyển,Tây Sơn tiêu tan cơ nghiệp,nhà Nguyễn lên thay,Nguyễn Du vào Nam,thấm thoát đã hai mươi năm không gặp lại người xưa:
Thấm thoát hai mươi năm từ ấy,
Tây Sơn thua, ta trẫy vào Nam
Sau đó tiên sinh ra làm quan với triều Nguyễn,dưới đời vua Gia Long.Năm Quý Dậu (1813) tiên sinh được vua phái đi sứ Trung Hoa.khi ghé Thăng Long,tiên sinh được quan Tuyên Phủ tiếp đãi ân cần,nồng hậu lại cho gọi bọn nữ nhạc,con hát đến giúp vui.Con hát đều trẻ đẹp,duy ở cuối bàn có một người đàn bà tóc đã hoa râm,nét mặt võ vàng,thần sắc khô khan,đôi mày tàn tạ,phờ phạc không trang điểm.nhưng khi một khúc đàn cầm trong trẻo vút lên,khác hẳn các khúc nhạc đương thời thì Nguyễn Du cảm thấy rất quen và động lòng trắc ẩn.Tiệc tan,tiên sinh đến hỏi thăm thì chính là cô Cầm ngày xưa,nhưng sao lại tiều tuỵ thế nầy!
Cuối bàn một mái hoa râm,
Nét buồn,sắc kém,tấm thân mai gầy.
Chẳng son phấn mặt mày ủ dột,
Chính danh ca số một ngày nao.
Khúc xưa,giọng mới,lệ trào.
Lắng nghe ta thấy nao nao ngậm ngùi.
Nguyễn Du nhớ lại hai mươi năm trước đã từng gặp nàng trong buổi tiệc bên hồ Giám mà thấy lòng cảm thương vô hạn.Dâu bể đổi dời,cuộc đời chìm nổi,cơ nghiệp nhà Tây Sơn đã tiêu tan hết,chỉ còn sót lại đây một người ca múa!Thời gian trôi qua sau nhanh quá,trăm năm như chớp mắt,đau lòng chuyện cũ mà lệ rơi thấm áo:
Thành đời,cuốn sữ sang trang
Bể dâu,dâu bể tang thương dập dồn.
Cơ nghiệp nhà Tây Sơn đã mất,
Chỉ còn đây múa hát một người
Trăm năm chớp mắt mà thôi,
Đau lòng việc cũ lệ rơi đầm đìa.
Nguyễn Du từng thương xót nàng Tiểu Thanh,Đạm Tiên,Thuý Kiều và nay người nữ nhạc công đa tài nhưng số phận hẩm hiu.Cuộc trùng phùng đã đong đầy nước mắt.Bài “Long Thành Cầm Giả Ca”(Bài ca về người đánh đàn cầm ở thành Thăng Long) là một áng thơ tuyệt tác gây xúc động lòng người.
Huyền ViêmMột lần tiên sinh đến kinh đô thăm anh,ở quán trọ bên hồ Giám.Cạnh đấy,các quan Tây Sơn cho gọi con hát tới,những con hát nổi tiếng không dưới vài chục người.Riêng có một người sở trường về đàn Nguyệt,hát cũng hay lại khéo pha trò.tên nàng là gì không ai biết,chỉ biết nàng rất thạo đàn nguyệt nên mọi người gọi là cô Cầm,lâu ngày thành tên.
Nàng không đẹp lắm nhưng khéo trang điểm nên cũng dễ coi,có vẻ ung dung phong nhã và ngón đàn nàng thật là tuyệt kỹ:
Bàn tay năm dây biến hoá,
Tiếng khoan như thoảng gió rừng thông.
Trong như tiếng hạt đêm trường,
Mạnh bia Tiến Phúc (1) gặp luồng sấm ran.
Sầu thảm tiếng ngâm Trang Tịch (2) bệnh,
Khách ngồi nghe như tỉnh như say.
Đến khi nàng tấu nhạc thường dùng trong đại điện Trung Hoà thì khanh tướng Tây Sơn tahỷ đều ngây ngất,suốt đêm vui chơi không biết chán.Tiền lụa thưởng nhiều vô kể,chất đầy mặt đất:
Trung Hoà đại điện khúc nầy,
Tây Sơn quan khách chắp tay phục tài
Cười vui suốt đêm dài chẳng dứt,
Thưởng tài,ai mặc sức tiền vung.
Tiền vàng xem tựa đất bùn,
Hào hoa lấn cả vương tôn công hầu.
Rồi tình hình đất nước biến chuyển,Tây Sơn tiêu tan cơ nghiệp,nhà Nguyễn lên thay,Nguyễn Du vào Nam,thấm thoát đã hai mươi năm không gặp lại người xưa:
Thấm thoát hai mươi năm từ ấy,
Tây Sơn thua, ta trẫy vào Nam
Sau đó tiên sinh ra làm quan với triều Nguyễn,dưới đời vua Gia Long.Năm Quý Dậu (1813) tiên sinh được vua phái đi sứ Trung Hoa.khi ghé Thăng Long,tiên sinh được quan Tuyên Phủ tiếp đãi ân cần,nồng hậu lại cho gọi bọn nữ nhạc,con hát đến giúp vui.Con hát đều trẻ đẹp,duy ở cuối bàn có một người đàn bà tóc đã hoa râm,nét mặt võ vàng,thần sắc khô khan,đôi mày tàn tạ,phờ phạc không trang điểm.nhưng khi một khúc đàn cầm trong trẻo vút lên,khác hẳn các khúc nhạc đương thời thì Nguyễn Du cảm thấy rất quen và động lòng trắc ẩn.Tiệc tan,tiên sinh đến hỏi thăm thì chính là cô Cầm ngày xưa,nhưng sao lại tiều tuỵ thế nầy!
Cuối bàn một mái hoa râm,
Nét buồn,sắc kém,tấm thân mai gầy.
Chẳng son phấn mặt mày ủ dột,
Chính danh ca số một ngày nao.
Khúc xưa,giọng mới,lệ trào.
Lắng nghe ta thấy nao nao ngậm ngùi.
Nguyễn Du nhớ lại hai mươi năm trước đã từng gặp nàng trong buổi tiệc bên hồ Giám mà thấy lòng cảm thương vô hạn.Dâu bể đổi dời,cuộc đời chìm nổi,cơ nghiệp nhà Tây Sơn đã tiêu tan hết,chỉ còn sót lại đây một người ca múa!Thời gian trôi qua sau nhanh quá,trăm năm như chớp mắt,đau lòng chuyện cũ mà lệ rơi thấm áo:
Thành đời,cuốn sữ sang trang
Bể dâu,dâu bể tang thương dập dồn.
Cơ nghiệp nhà Tây Sơn đã mất,
Chỉ còn đây múa hát một người
Trăm năm chớp mắt mà thôi,
Đau lòng việc cũ lệ rơi đầm đìa.
Nguyễn Du từng thương xót nàng Tiểu Thanh,Đạm Tiên,Thuý Kiều và nay người nữ nhạc công đa tài nhưng số phận hẩm hiu.Cuộc trùng phùng đã đong đầy nước mắt.Bài “Long Thành Cầm Giả Ca”(Bài ca về người đánh đàn cầm ở thành Thăng Long) là một áng thơ tuyệt tác gây xúc động lòng người.
Kiến Thức Ngày Nay số 42 ngày 10.04.2002.
thanh huyen- 69KNS
- Tổng số bài gửi : 705
Join date : 10/06/2011
Bài ca về người gảy đàn đất Long Thành
Tiểu dẫn
Người gảy đàn đất Long Thành ấy, tên họ là gì không rõ. Nghe nói lúc nhỏ nàng học đàn Nguyễn nơi đội nữ nhạc trong cung vua Lê. Binh Tây Sơn dấy lên, các đội nhạc cũ lớp chết lớp bỏ đi. Nàng lưu lạc ở các chợ, ôm đàn gảy dạo. Những bản đàn do nàng gảy là những khúc trong cung phụng gảy cho vua nghe, người ngoài không ai biết. Cho nên tài danh của nàng lừng lẫy một thời.
Buổi thiếu niên, đến kinh đô thăm anh, tôi trọ gần Giám hồ. Cạnh đó các quan Tây Sơn tập hộo nữ nhạc, danh cơ không dưới vài chục. Nàng ăn đứt mọi người với cây đàn Nguyễn, lại hát hay và khéo nói khôi hài. Cử tọa đều say mê điên đảo đua nhau ban thưởng. Những chén rượu thưởng to lớn, nàng nhận uống cạn. Tiền thưởng nhiều vô số. Vàng lụa chồng chất đầy cả đất. Lúc bấy giờ tôi núp trong bóng tối, trông thấy nàng không rõ lắm. Sau gặp lại ở nhà anh tôi. Nàng người thấp má bầu, trán giô, mặt gẫy. Không đẹp lắm, nhưng da trắng trẻo, khéo trang điểm, mày thanh, má phấn, áo màu hồng, quần sắc túy, hớn hở có bề phong tao. Tánh lại hay rượu, ưa hí hước. Đôi mắt long lanh không để một ai vào tròng. Khi ở nhà anh tôi, mỗi lần uống rượu, năng uống say vùi, nôn mửa bừa bãi, nằm lăn trên đất, bạn bè chê trách, không lấy làm điều.
Sau đó vài năm, tôi dời nhà vào Nam, ngót mấy năm liền không trở lại Long Thành. Mùa xuân năm nay, phụng mệnh đi sứ Trung Quốc, tôi đi ngang qua Long Thành. Các bạn mở tiệc tiễn tôi tại dinh Tuyên Phủ, có gọi vài chục nữ nhạc, tôi đều không quen mặt biết tên. Tiệc khởi múa hát. Kế đến tiếng đàn trổi lên, nghe trong trẻo khác thường không chút giống thời khúc. Lòng tôi kinh dị. Nhìn người gảy đàn, thì thấy thân gầy, thân khô, mặt đen, sắc trông như quỷ, áo quần toàn vải thô, bạc màu lại vá nhiều mảnh trắng, ngồi lầm lì ở cuối chiếu, không nói cũng không cười, hình trạng thật khó coi. Tôi không biết là ai, nhưng nghe tiếng đàn thì dường như có quen, nên động lòng trắc ẩn. Tiệc tan, hỏi thăm thì ra là người trước kia đã gặp.
Than ôi! Người ấy sao đến nỗi thế này! Cúi ngửa bồi hồi, nghĩ đến cảnh cổ kim, lòng tôi cảm kích vô hạn. Đời người trăm năm, những cảnh vinh nhục buồn vui thật sao không lường được! Sau khi từ biệt, trên đường đi, cảm thương khôn nén, nên soạn bài ca để gửi hứng :
Nguyễn Du (Bắc Hành Tạp Lục)
Người đẹp đất Long Thành
Không nghe tên họ
Riêng thạo đàn Nguyễn
Người trong thành bèn lấy chữ Cầm mà đặt tên.
Nàng học được khúc Cung Phụng trong cung tiền triều (2)
Đó là những khúc đàn hay nhất trời đất.
Tôi nhớ lúc thiếu thời đã gặp một lần
Bên bờ hồ Giám trong một cuộc dạ yến,
Lúc đó nàng khoảng hai mươi mốt tuổi,
Áo hồng ánh lên mặt hoa đào,
Má hừng rượu, vẻ ngây thơ, rất dễ thương,
Năm cung réo rắt, theo ngón tay mà thay đổi điệu.
Tiếng khoan như gió thoảng qua rừng thông,
Tiếng trong như đôi hạc kêu trên cao thẳm,
Tiếng lạnh như sét đánh tan bia Tiến Phúc,
Tiếng buồn như Trang Tịch ngâm tiếng Việt lúc bệnh,
Người nghe say sưa không biết mỏi,
Đó là những khúc đàn trong đại nội Trung Hòa.
Các quan Tây Sơn trong tiệc đều say mê điên đảo,
Mải vui suốt đêm không biết chán.
Bên tả bên hữu tranh nhau vãi thưởng,
Tiền bạc coi rẻ như đất bùn.
Ý khí đào hoa át cả các bậc vương hầu,
Đám thiếu niên đất Ngũ Lăng không đáng kể.
Tưởng chừng ba mươi sáu cung xuân,
Chung đúc một vật báu vô giá đất Trường An.
Nhớ lại từ bữa tiệc ấy đến nay đã hai mươi năm,
Sau khi Tây Sơn bại vong, tôi vào Nam,
Long Thành trong gang tấc không được thấy lại,
Huống hồ tiệc múa hát ở trong thành.
Quan Tuyên Phủ vì tôi bày cuộc mua cười,
Trong đám ca kĩ đều trẻ tuổi.
Duy ở cuối chiếu có một nàng tóc đã hoa râm.
Mặt gầy thần khô hình bé nhỏ,
Đôi mày phờ phạc không điểm tô,
Ai biết đó là người trước kia nổi danh tài hoa đệ nhất trong một thời,
Khúc xưa đàn lên, tôi tuôn nước mắt ngầm theo từng tiếng.
Tai lắng nghe mà lòng chua xót!
Bỗng nhớ lại chuyện hai mươi năm xưa
Đã từng thấy trong chiếu tiệc bên hồ Giám.
Thành quách suy dời, việc người đổi,
Bao nương dâu đã biến thành biển xanh.
Cơ nghiệp Tây Sơn tiêu tan sạch,
Trong làng múa hát còn sót lại một người!
Trăm năm thấm thoát trong một hơi thở một nháy mắt
Cảm thương việc cũ lệ thấm áo
Từ Nam trở về, đầu tôi bạc trắng!
Không trách người đẹp nhan sắc suy tàn.
Hai mắt trừng trừng luống tưởng lại chuyện cũ
Khá thương giáp mặt nhau mà không nhận được nhau!
(Quách Tấn dịch xuôi)
Người gảy đàn đất Long Thành ấy, tên họ là gì không rõ. Nghe nói lúc nhỏ nàng học đàn Nguyễn nơi đội nữ nhạc trong cung vua Lê. Binh Tây Sơn dấy lên, các đội nhạc cũ lớp chết lớp bỏ đi. Nàng lưu lạc ở các chợ, ôm đàn gảy dạo. Những bản đàn do nàng gảy là những khúc trong cung phụng gảy cho vua nghe, người ngoài không ai biết. Cho nên tài danh của nàng lừng lẫy một thời.
Buổi thiếu niên, đến kinh đô thăm anh, tôi trọ gần Giám hồ. Cạnh đó các quan Tây Sơn tập hộo nữ nhạc, danh cơ không dưới vài chục. Nàng ăn đứt mọi người với cây đàn Nguyễn, lại hát hay và khéo nói khôi hài. Cử tọa đều say mê điên đảo đua nhau ban thưởng. Những chén rượu thưởng to lớn, nàng nhận uống cạn. Tiền thưởng nhiều vô số. Vàng lụa chồng chất đầy cả đất. Lúc bấy giờ tôi núp trong bóng tối, trông thấy nàng không rõ lắm. Sau gặp lại ở nhà anh tôi. Nàng người thấp má bầu, trán giô, mặt gẫy. Không đẹp lắm, nhưng da trắng trẻo, khéo trang điểm, mày thanh, má phấn, áo màu hồng, quần sắc túy, hớn hở có bề phong tao. Tánh lại hay rượu, ưa hí hước. Đôi mắt long lanh không để một ai vào tròng. Khi ở nhà anh tôi, mỗi lần uống rượu, năng uống say vùi, nôn mửa bừa bãi, nằm lăn trên đất, bạn bè chê trách, không lấy làm điều.
Sau đó vài năm, tôi dời nhà vào Nam, ngót mấy năm liền không trở lại Long Thành. Mùa xuân năm nay, phụng mệnh đi sứ Trung Quốc, tôi đi ngang qua Long Thành. Các bạn mở tiệc tiễn tôi tại dinh Tuyên Phủ, có gọi vài chục nữ nhạc, tôi đều không quen mặt biết tên. Tiệc khởi múa hát. Kế đến tiếng đàn trổi lên, nghe trong trẻo khác thường không chút giống thời khúc. Lòng tôi kinh dị. Nhìn người gảy đàn, thì thấy thân gầy, thân khô, mặt đen, sắc trông như quỷ, áo quần toàn vải thô, bạc màu lại vá nhiều mảnh trắng, ngồi lầm lì ở cuối chiếu, không nói cũng không cười, hình trạng thật khó coi. Tôi không biết là ai, nhưng nghe tiếng đàn thì dường như có quen, nên động lòng trắc ẩn. Tiệc tan, hỏi thăm thì ra là người trước kia đã gặp.
Than ôi! Người ấy sao đến nỗi thế này! Cúi ngửa bồi hồi, nghĩ đến cảnh cổ kim, lòng tôi cảm kích vô hạn. Đời người trăm năm, những cảnh vinh nhục buồn vui thật sao không lường được! Sau khi từ biệt, trên đường đi, cảm thương khôn nén, nên soạn bài ca để gửi hứng :
Nguyễn Du (Bắc Hành Tạp Lục)
Người đẹp đất Long Thành
Không nghe tên họ
Riêng thạo đàn Nguyễn
Người trong thành bèn lấy chữ Cầm mà đặt tên.
Nàng học được khúc Cung Phụng trong cung tiền triều (2)
Đó là những khúc đàn hay nhất trời đất.
Tôi nhớ lúc thiếu thời đã gặp một lần
Bên bờ hồ Giám trong một cuộc dạ yến,
Lúc đó nàng khoảng hai mươi mốt tuổi,
Áo hồng ánh lên mặt hoa đào,
Má hừng rượu, vẻ ngây thơ, rất dễ thương,
Năm cung réo rắt, theo ngón tay mà thay đổi điệu.
Tiếng khoan như gió thoảng qua rừng thông,
Tiếng trong như đôi hạc kêu trên cao thẳm,
Tiếng lạnh như sét đánh tan bia Tiến Phúc,
Tiếng buồn như Trang Tịch ngâm tiếng Việt lúc bệnh,
Người nghe say sưa không biết mỏi,
Đó là những khúc đàn trong đại nội Trung Hòa.
Các quan Tây Sơn trong tiệc đều say mê điên đảo,
Mải vui suốt đêm không biết chán.
Bên tả bên hữu tranh nhau vãi thưởng,
Tiền bạc coi rẻ như đất bùn.
Ý khí đào hoa át cả các bậc vương hầu,
Đám thiếu niên đất Ngũ Lăng không đáng kể.
Tưởng chừng ba mươi sáu cung xuân,
Chung đúc một vật báu vô giá đất Trường An.
Nhớ lại từ bữa tiệc ấy đến nay đã hai mươi năm,
Sau khi Tây Sơn bại vong, tôi vào Nam,
Long Thành trong gang tấc không được thấy lại,
Huống hồ tiệc múa hát ở trong thành.
Quan Tuyên Phủ vì tôi bày cuộc mua cười,
Trong đám ca kĩ đều trẻ tuổi.
Duy ở cuối chiếu có một nàng tóc đã hoa râm.
Mặt gầy thần khô hình bé nhỏ,
Đôi mày phờ phạc không điểm tô,
Ai biết đó là người trước kia nổi danh tài hoa đệ nhất trong một thời,
Khúc xưa đàn lên, tôi tuôn nước mắt ngầm theo từng tiếng.
Tai lắng nghe mà lòng chua xót!
Bỗng nhớ lại chuyện hai mươi năm xưa
Đã từng thấy trong chiếu tiệc bên hồ Giám.
Thành quách suy dời, việc người đổi,
Bao nương dâu đã biến thành biển xanh.
Cơ nghiệp Tây Sơn tiêu tan sạch,
Trong làng múa hát còn sót lại một người!
Trăm năm thấm thoát trong một hơi thở một nháy mắt
Cảm thương việc cũ lệ thấm áo
Từ Nam trở về, đầu tôi bạc trắng!
Không trách người đẹp nhan sắc suy tàn.
Hai mắt trừng trừng luống tưởng lại chuyện cũ
Khá thương giáp mặt nhau mà không nhận được nhau!
(Quách Tấn dịch xuôi)
thanh huyen- 69KNS
- Tổng số bài gửi : 705
Join date : 10/06/2011
CAO BÁ QUÁT VỚI “DU HỘI AN PHÙNG VỊ THÀNH CA GIẢ”
Cao Bá Quát (1809-1854) biệt hiệu Chu Thần (bề tôi nhà Chu).Người làng Phú Thị,huyện Gia Lâm,tỉnh Bắc Ninh,là một bậc tài hoa văn chương xuất chúng nổi tiếng một thời (thần Siêu,thánh Quát).
Ông rất yêu thiên nhiên và yêu người.Trong bài “Đêm Mười Bảy Dưới Ánh Trăng” ông mô tả một người con gái đẹp đứng dưới ánh trăng trong như nước,nàng tựa lan can thầm nghĩ “không lo đêm dài lạnh,chỉ sợ trăng sắp tàn”.Nàng nghĩ khi mười sáu tuổi mình cũng đẹp như mảnh trăng nầy.Tiếc cho sắc đẹp mình cũng như ánh trăng,cứ dần trôi đi,trôi đi mãi.Cô gái không nỡ để cho ánh trăng bị hao phí,nàng khẽ nâng tà áo bọc lấy ánh trăng, rồi xén ra thay giấy, viết thành lá thư tâm sự gửi người yêu.Thật giàu tưởng tượng và lãng mạn vô cùng.
Sinh ra ở đất Bắc,làm quan ở Huế,nhưng Cao Bá Quát cũng nhiều lần vào Quảng Nam,Quảng Ngãi đi thăm bạn và viếng cảnh.Đến Hội An (Quảng Nam) tình cờ ông gặp lại cô đào hát ngày xưa ông đã từng quen và đem lòng yêu mến.Ông làm bài thơ “Du Hội An Phùng Vị Thành Ca Giả” (Chơi phố Hội An gặp cô đào hát thành Vị)(4) trong đó ông tỏ ý tiếc là gặp nhau quá muộn,mà lại gặp nhau ở nơi đất khách quê người! Ông viết: Xa quê hương đã mấy thu rồi mà nay mới được nghe tiếng ty,tiếng trúc.Nước mắt dù đã cạn,ly rượu vẫn còn đầy.Ngọn đèn còn cháy,lửa lòng sao nỡ tắt.Bạn cũ lưu lạc khắp nơi,nay còn được bao người,thôi thì hẹp lòng chi mà không cho nghe khúc hát!
Bây giờ mới gặp nhau.
Gặp nhau nơi đất khách.
Trúc tơ đêm trăng nầy.
Đất nước mấy thu cách.
Lệ cạn,rượu còn đầy.
Đèn còn,lòng nỡ tắt.
Bạn bè lưa thưa dần.
Tiếc chi nhau khúc hát.
Thật là chí tình vậy!
Huyền ViêmÔng rất yêu thiên nhiên và yêu người.Trong bài “Đêm Mười Bảy Dưới Ánh Trăng” ông mô tả một người con gái đẹp đứng dưới ánh trăng trong như nước,nàng tựa lan can thầm nghĩ “không lo đêm dài lạnh,chỉ sợ trăng sắp tàn”.Nàng nghĩ khi mười sáu tuổi mình cũng đẹp như mảnh trăng nầy.Tiếc cho sắc đẹp mình cũng như ánh trăng,cứ dần trôi đi,trôi đi mãi.Cô gái không nỡ để cho ánh trăng bị hao phí,nàng khẽ nâng tà áo bọc lấy ánh trăng, rồi xén ra thay giấy, viết thành lá thư tâm sự gửi người yêu.Thật giàu tưởng tượng và lãng mạn vô cùng.
Sinh ra ở đất Bắc,làm quan ở Huế,nhưng Cao Bá Quát cũng nhiều lần vào Quảng Nam,Quảng Ngãi đi thăm bạn và viếng cảnh.Đến Hội An (Quảng Nam) tình cờ ông gặp lại cô đào hát ngày xưa ông đã từng quen và đem lòng yêu mến.Ông làm bài thơ “Du Hội An Phùng Vị Thành Ca Giả” (Chơi phố Hội An gặp cô đào hát thành Vị)(4) trong đó ông tỏ ý tiếc là gặp nhau quá muộn,mà lại gặp nhau ở nơi đất khách quê người! Ông viết: Xa quê hương đã mấy thu rồi mà nay mới được nghe tiếng ty,tiếng trúc.Nước mắt dù đã cạn,ly rượu vẫn còn đầy.Ngọn đèn còn cháy,lửa lòng sao nỡ tắt.Bạn cũ lưu lạc khắp nơi,nay còn được bao người,thôi thì hẹp lòng chi mà không cho nghe khúc hát!
Bây giờ mới gặp nhau.
Gặp nhau nơi đất khách.
Trúc tơ đêm trăng nầy.
Đất nước mấy thu cách.
Lệ cạn,rượu còn đầy.
Đèn còn,lòng nỡ tắt.
Bạn bè lưa thưa dần.
Tiếc chi nhau khúc hát.
Thật là chí tình vậy!
Kiến Thức Ngày Nay số 42 ngày 10.04.2002.
4-Thành Vị hay Vị thành: thành phố Nam Định vì ở đấy có sông Vị Hoàng chảy qua.
thanh huyen- 69KNS
- Tổng số bài gửi : 705
Join date : 10/06/2011
DƯƠNG KHUÊ VỚI “GẶP CÔ ĐẦU CŨ”
Dương Khuê (1839-1902) hiệu là Vân Trì,người làng Vân Đình,phủ Ứng Hoà,tỉnh Hà Đông, cũng là một khách đa tình.Ông có nhiều bài hát viết về các cô đầu nhan đề: Cùng ai dan díu,Tặng cô đào Phẩm,Tặng cô đào Cúc,Tặng cô đào Ngọ,Tặng cô đào Cần,tặng cô đào goá v.v…Nhưng đến bài “Gặp cô đầu cũ”,ta mới thấy tình ông tha thiết dường nào.
Thời trẻ trong những lần đi hát,ông có quen biết hai đào nương là Hồng và Tuyết,nhưng hồi ấy hai cô còn bé lắm,đâu đã biết chuyện yêu đương.Mười lăm năm sau gặp lại,hai cô đã đến tuổi lấy chồng,còn ông thì đã già rồi.Ông bèn làm bài hát “Gặp cô đầu cũ” với mưỡu đầu như sau:
Nước,nước biếc,non,non xanh,
Sớm tình,tình sớm,trưa tình,tình trưa.
Nhớ ai tháng đợi năm chờ,
Nhớ người dạo ấy bây giờ là đây.
Nói:
Hồng Hồng,Tuyết Tuyết,
Mới ngày nảo chửa biết cái chi chi.
Mười lăm năm thắm thoát có xa gì.
Chợt ngoãnh lại đã đến kỳ tơ liễu.
Ngã lãng du thời,quân thượng thiếu
Quân kim hứa giá,ngã thành ông (5)
Cười cười nói nói thẹn thùng
Mà nay bạch phát với hồng nhan (6) chừng ái ngại.
Bài hát nói tả nỗi buồn vì gặp lại người xưa quá muộn và nỗi xót xa vì thời gian qua mau khiến người đọc cũng cảm thấy nao lòng.
Cao Bá Quát đã từng viết: Giai nhất,nan đái tắc (người đẹp khó gặp lại),Lý Thương Ẩn đời Đường cũng viết “Tương kiến thời nan,biệt diệc nan” (khó gặp nhau mà cũng khó xa),nhưng gặp nhau trong hoàn cảnh éo le như các nhà thơ trên đây thì thật đáng buồn.
Thời gian qua mau ,cuộc đời biến chuyễn không ngừng mà thân phận của giai nhân nổi chìm theo thời cuộc khi gặp lại nhau thì đã già rồi,kỷ niệm xưa chỉ còn là dĩ vãng.Nhưng cũng nhờ đó mà ngày nay ta mới được đọc những áng thơ tuyệt tác và hiểu được tâm sự của tiền nhân.
Huyền ViêmThời trẻ trong những lần đi hát,ông có quen biết hai đào nương là Hồng và Tuyết,nhưng hồi ấy hai cô còn bé lắm,đâu đã biết chuyện yêu đương.Mười lăm năm sau gặp lại,hai cô đã đến tuổi lấy chồng,còn ông thì đã già rồi.Ông bèn làm bài hát “Gặp cô đầu cũ” với mưỡu đầu như sau:
Nước,nước biếc,non,non xanh,
Sớm tình,tình sớm,trưa tình,tình trưa.
Nhớ ai tháng đợi năm chờ,
Nhớ người dạo ấy bây giờ là đây.
Nói:
Hồng Hồng,Tuyết Tuyết,
Mới ngày nảo chửa biết cái chi chi.
Mười lăm năm thắm thoát có xa gì.
Chợt ngoãnh lại đã đến kỳ tơ liễu.
Ngã lãng du thời,quân thượng thiếu
Quân kim hứa giá,ngã thành ông (5)
Cười cười nói nói thẹn thùng
Mà nay bạch phát với hồng nhan (6) chừng ái ngại.
Bài hát nói tả nỗi buồn vì gặp lại người xưa quá muộn và nỗi xót xa vì thời gian qua mau khiến người đọc cũng cảm thấy nao lòng.
Cao Bá Quát đã từng viết: Giai nhất,nan đái tắc (người đẹp khó gặp lại),Lý Thương Ẩn đời Đường cũng viết “Tương kiến thời nan,biệt diệc nan” (khó gặp nhau mà cũng khó xa),nhưng gặp nhau trong hoàn cảnh éo le như các nhà thơ trên đây thì thật đáng buồn.
Thời gian qua mau ,cuộc đời biến chuyễn không ngừng mà thân phận của giai nhân nổi chìm theo thời cuộc khi gặp lại nhau thì đã già rồi,kỷ niệm xưa chỉ còn là dĩ vãng.Nhưng cũng nhờ đó mà ngày nay ta mới được đọc những áng thơ tuyệt tác và hiểu được tâm sự của tiền nhân.
Kiến Thức Ngày Nay số 42 ngày 10.04.2002.
5-Hai câu thơ chữ Hán: Khi ta đang thời phong lãng thì hai nàng còn bé,nay hai nàng đến tuổi lấy chồng thì ta đã già rồi.
6-Bạch Phát là tóc trắng,hồng nhan là má hồng.Già và trẻ.
thanh huyen- 69KNS
- Tổng số bài gửi : 705
Join date : 10/06/2011
Trang 1 trong tổng số 1 trang
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết